LUẬT THI ĐẤU BOXING
ĐIỀU 11: ĐIỀU KIỆN GIA NHẬP VÀ ĐƯỢC GHI DANH SÁCH TRỌNG TÀI, GIÁM ĐỊNH QUỐC TẾ
11.1.Trọng tài Quốc tế và Giám định Quốc tế: Danh hiệu "Trọng tài và Giám định Quốc tế" là danh hiệu cao nhất đối với Trọng tài và Giám định Boxing nghiệp dư. Họ được cấp một văn bằng "Trọng tài và Giám định Quốc tế", được nhận huy hiệu của AIBA và chứng minh thư.
11.2. Ứng cử viên được chọn để ghi tên vào danh sách Trọng tài, Giám định Quốc tế của AIBA phải:
11.2.1. Được Hiệp hội Quốc gia của họ giới thiệu và văn phòng Châu lục đề cử.
11.2.2. Đã có tên trong danh sách Trọng tài - Giám định của tổ chức Châu lục ít nhất 2 năm và hoàn thành tôt nhiệm vụ được giao với tư cách là Trọng tài - Giám định Châu lục.
11.2.3. Có giấy chứng nhận của Ủy ban Y tế AIBA được ký nhận bởi Ủy ban Y tế của Hiệp hội Quốc gia xác nhận có đầy đủ sức khỏe và thể lực để hoàn thành nhiệm vụ Trọng tài - Giám định.
11.2.4. Một Hiệp hội không được có quá 12 thành viên có tên trong danh sách và nếu quá thì Hiệp hội phải rút tên cho đủ theo quy định.
11.2.5. Cần có bản tóm tắt ghi rõ kinh nghiệm đã trải qua, thể lực và chức danh hai năm trước đó của họ.
11.2.6. Nói tốt một trong các ngôn ngữ chính thức của AIBA (Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Nga, Đức, Ả Rập).
11.3. Duy trì tên trong danh sách Quốc tế:
Nhằm duy trì và nâng cao chất lượng Trọng tài - Giám định đảm bảo việc thông suốt các Luật lệ của AIBA và lựa chọn các Trọng tài và Giám định mới, Ủy ban Trọng tài và Giám định phải tổ chức các khóa học và kỳ thi như sau:
11.3.1. Một hay nhiều Hiệp hội Quốc gia đề nghị văn phòng AIBA tổ chức khóa huấn luyện và kỳ thi kiểm tra cho các viên chức của họ tại bất cứ nơi nào trên thế giới vì đã được chấp thuận bởi văn phòng Châu lục liên quan.
11.3.2. Khóa huấn luyện và kiểm tra được điều hành bởi 2 viên chức của AIBA là Ủy viên của Hội đồng Chấp hành của Ủy ban Trọng tài - Giám định hoặc là viên chức của văn phòng Châu lục được Hội đồng Chấp hành đề cử với sự hợp tác của đại diện của Hiệp hội Quốc gia có liên quan. Trong Ban giám khảo phải có ít nhất là 1 viên chức của Hội đồng Chấp hành AIBA.
Ủy ban Trọng tài - Giám định khuyến cáo rằng tất cả các kỳ kiểm tra phải được điều hành bởi viên chức của Hội đồng Chấp hành, một trong số đó phải là thành viên của Ủy ban "Trọng tài - Giám định". Cả 2 thành viên này phải có tên trong danh sách Trọng tài - Giám định Quốc tế.
11.3.2.1. Các kỳ thi kiểm tra để tuyển vào danh sách Trọng tài - Giám định Quốc tế của AIBA và danh sách Trọng tài - Giám định Châu lục phải được điều hành bởi viên chức của văn phòng Châu lục. Trong những trường hợp ngoại lệ, Chủ tịch AIBA có thể giao quyền này cho Ủy viên Hội đồng Châu lục khác.
Các ứng viên phải hoàn thành bài thi viết, thi vấn đáp và thực hành một cách thành công mới được chấp thuận.
11.3.2.2. Bài kiểm tra và các hồ sơ liên quan được lưu giữ tại các văn phòng Châu lục có uy tín.
11.3.3. Chi phí ăn ở, đi lại của 2 viên chức này được chi trả bởi một hay các Hiệp hội Quốc gia đã tổ chức khóa huấn luyện kiểm tra.
11.3.4. Kết quả huấn luyện và kiểm tra được Ủy ban Trọng tài - Giám định đệ trình lên Hội đồng Chấp hành AIBA phê duyệt tại phiên họp ngay sau đó. Quyết định này sẽ được thông báo cho văn phòng Châu lục và các Hiệp hội Quốc gia liên quan.
11.3.5. Ủy ban Trọng tài - Giám định ít nhất 04 năm một lần phải tiến hành kiểm tra năng lực các Trọng tài - Giám định có tên trong danh sách với danh hiệu Trọng tài - Giám định Quốc tế. Nếu họ không đạt yêu cầu sẽ phải thi lại để đạt danh hiệu Trọng tài - Giám định Quốc tế này.
11.3.6. Những viên chức không đạt yêu cầu sẽ không có tên trong danh sách Trọng tài - Giám định Quốc tế.
11.3.7. Khi tới tuổi 60, Trọng tài - Giám định AIBA cần được kiểm tra về thể lực và thần kinh, nếu đạt yêu cầu mới được chấp nhận.
11.3.8. Trọng tài - Giám định AIBA được phân thành 3 cấp: A, B, C. Phân loại này được quyết định bởi Hội đồng Chấp hành căn cứ vào khuyến cáo của Ủy ban Trọng tài - Giám đinh và văn phòng Châu lục.
11.3.9. Các Hiệp hội Quốc gia phải cung cấp cho Chủ tịch AIBA và Chủ tịch Ủy ban Trọng tài - Giám định danh sáh năng lực của họ và các thông tin liên quan đến các ứng viên này và phải gửi cho các cơ quan này ít nhất 8 tuần trước ngày kiểm tra.
11.4. Thủ tục: Ủy ban Trọng tài - Giám định phối hợp với Tổng thư ký chấp nhận những thủ tục sau đây cho các khóa huấn luyện và kiểm tra:
11.4.1. Nếu một hay nhiều Hiệp hội Quốc gia mong muốn đề cử một hay nhiều ứng viên sẽ được cấp mẫu hồ sơ để điền vào các thông tin cần thiết.
11.4.2. Trong cuộc hội thảo được AIBA chấp thuận, Hiệp hội Quốc gia nước tổ chức sẽ tổ chức một khóa huấn luyện và kiểm tra cho các ứng viên. Các ứng viên này sẽ làm nhiệm vụ Trọng tài - Giám định cho ít nhất năm trận đấu được các viên chức của Ủy ban Trọng tài - Giám định hay của Ủy ban Chấp hành hoặc của văn phòng Châu lục chấm điểm.
11.4.3. Các viên chức trên cũng phỉa tham dự chấm điểm tại kỳ thi vấn đáp để đảm bảo các ứng viên Trọng tài - Giám định Quốc tế thông suốt Luật lệ AIBA và các chỉ thị liên quan.
11.4.4. Các viên chức trên phải quyết định xem xét các ứng viên có đầy đủ phẩm chất và năng lực để đạt danh hiệu Trọng tài - Giám định Quốc tế hay không. Bản báo cáo phải đầy đủ chữ ký của các thành viên, các thành viên đều có thể ghi nhận quan điểm riêng của mình và bản báo cáo sẽ được gửi đến Ủy ban Trọng tài - Giám định.
11.5. Trọng tài và Giám định danh dự: Hội đồng Chấp hành AIBA có thể trao danh hiệu "Trọng tài - Giám định danh dự của Quyền Anh ngiệp dư" cho các viên chức đữ nghỉ hưu có năng lực xuất sắc và các phẩm chất vượt trội.
11.6. Điều 11 này cũng áp dụng với Trọng tài - Giám định nữ có tên trong danh sách Trọng tài - Giám định Quốc tế và Châu lục.
ĐIỀU 12: BAN GIÁM KHẢO
12.1. Trong giải Vô địch thế giới và Olympic, Hội đồng Chấp hành hoạt động với tư cách Ban giám khảo hoặc chỉ định Ban giám khảo. Trong giải vô địch Châu lục, ban giám khảo được chỉ định bởi Hội đồng Chấp hành của Liên đoàn Châu lục, nếu không có tổ chức này thì văn phòng Châu lục sẽ chỉ định. Trong các buổi đấu (ngoài trận chung kết), Ban giám khảo phải có không ít hơn 3 người, nhưng không quá 5 người, kể cả Chủ tịch đương nhiệm và 2 người kia là thành viên của Ủy ban Trọng tài - Giám định. Không một ủy viên nào khác của ban giám khảo ngoài những người nói trên được ngồi vào bàn Giám khảo trong buổi đấu. bảng phân công Ban giám khảo của mỗi buổi đấu được Chủ tịch AIBA (nếu ông ta vắng mặt thì đại diện được chỉ định) sắp xếp trước khi bắt đầu buổi đấu. Các ủy viên muốn thay đổi vị trí trong bảng phân công phải được Chủ tịch hay người đại diện cho phép. Tất cả các ủy viên của Hội đồng chấp hành sẽ làm nhiệm vụ Ban giám khảo trong trận đấu chung kết.
Các ủy viên của Hội đồng Chấp hành AIBA trong danh sách Trọng tài - Giám định và các ủy viên của ban Trọng tài - Giám định đều có quyền bỏ phiếu.
12.2. Nhiệm vụ:
12.2.1. Mỗi thành viên trong Ban giám khảo ghi lại điểm của VĐv mà họ có được trong từng trận đấu và các điểm này có thể được đối chiếu với điểm của các Giám định đang làm nhiệm vụ các trận này.
12.2.2. Ban giám khảo tiến hành kiểm tra phiếu điểm của 5 Giám định để đảm bảo rằng (a) các điểm đã được cộng là chính xác (b) tên các VĐV được ghi chính xác (c) VĐV thắng cuộc được chỉ định (d) các phiếu điểm đã được ký tên; nghĩa là Ban giám khảo phải kiểm tra các phiếu điểm hay bảng chấm điểm do máy chấm điểm điện tử ghi lại.
Chủ tịch Ban giám khảo hoặc Giám khảo đang làm nhiệm vụ sẽ thông báo tên VĐV được chỉ định thắng cuộc do được đa số của 5 phiếu chấm điểm hoặc do kết quả trên màn hình của máy chấm điểm diện tử.
12.2.3. Ban giám khảo sẽ họp vào sáng hôm sau để xem xét hoạt động của Trọng tài và Giám định ngày hôm trước và sẽ có khuyến cáo với Hội đồng Chấp hành về các Trọng tài - Giám định mà theo họ chưa hoàn thành nhiệm vụ. Ban giám định của các trận đấu hiện diện tại buổi họp để báo cáo việc làm của họ ngày hôm trước.
12.2.4. Ban giám khảo sẽ thông báo với Hội đồng chấp hành bằng văn bản, các Trọng tài - Giám định mà theo họ không áp dụng hữu hiệu Luật lệ của AIBA hoặc không chấm điểm chính xác.
12.2.5. Ban giám khảo sẽ đệ trình lên Hội đồng Chấp hành AIBA, Hội đồng Chấp hành của Liên đoàn Châu lục, văn phòng Châu lục các thay đổi về danh sách Trọng tài - Giám định mà họ thấy cần thiết.
12.2.6. Ban giám khảo sẽ lưu ý Hội đồng Chấp hành về những Trọng tài - Giám định đã được chỉ định làm nhiệm vụ mà lại vắng mặt không làm nhiệm vụ và không báo cáo cho Tổng thư ký về lý do chính đáng của sự vắng mặt này.
12.2.7. Nếu một viên chức được chỉ định làm nhiệm vụ vắng mặt, Ban giám khảo có quyền chọn lựa để thay thế bằng một viên chức tương đương trong danh sách các viên chức được chọn lựa và phải báo cáo cho Hội đồng Chấp hành hay văn phòng Châu lục có liên quan ngay khi có thể được về sự thay đổi này.
12.2.8. Nếu một trận đấu có nhiều tình huống phức tạp và không diễn ra bình thường mà Trọng tài không có biện pháp hữu hiệu, Ban giám khảo có thể dừng trận đấu cho tới khi giải quyết được sự cố.
12.2.9. Ban giám khảo có thể đưa ra những biện pháp cần thiết tức thời khi có các sự cố tại các trận đấu.
12.2.10. Ban giám khảo sẽ tham vấn Ủy ban Trọng tài - Giám định về các quyết định hoặc khuyến cáo mà họ đưa ra.
12.2.11. Khi một VĐV có hành động vi phạm Luật lệ một cách nghiêm trọng và có ý đi ngược với tinh thần thể thao, Ban giám khảo có quyền kiến nghị Hội đồng Chấp hành và tuyên bố kỷ luật VĐV đó không được thi đấu trong một thời gian nhất định và Hội đồng Chấp hành có thể tước bỏ huy chương hoặc phần thưởng mà VĐV đó nhận được.
12.2.12. Các thành viên trong Ban giám khảo không được làm nhiệm vụ nếu trong trận đấu có VĐV là người có cùng quốc gia với thành viên trong Ban giám khảo.
12.3. Bác bỏ quyết định của Trọng tài và Giám định: Quyết định của một Trọng tài hay Giám định có thể bị Ban giám khảo bác bỏ trong trường hợp:
12.3.1. Khi Trọng tài có một quyết định rõ ràng ngược với các Chương, Điều trong Luật lệ AIBA (Ban giám khảo có thể sử dụng bằng việc ghi hình trận đấu).
12.3.2. Khi thấy rõ ràng Giám định đã có sự lầm lẫn trong phiếu điểm của họ đưa đến quyết định sai lầm.
12.4. Khiếu nại: Trưởng đoàn có thể khiếu nại lên Ban giám khảo và phí khiếu nại là 100 USD, không chậm hơn 30 phút sau khi kết thúc trận đấu. Nếu Ban giám khảo đồng ý xem xét giải quyết khiếu nại, các hành động cần thiết sẽ được thực hiện. Nếu khiếu nại đúng, phí khiếu nại sẽ được hoàn trả.
12.5. Nếu là thành viên Ban giám khảo thì không được làm Trọng tài, Giám định tại các giải thi đấu đó.
12.6. Trung lập: Tại các cuộc thi đấu quốc tế, các thành viên Ban giám khảo phải là người từ nước khác đến.
ĐIỀU 13: TRỌNG TÀI
13.1. Điều quan tâm chủ yếu: Quan tâm đến VĐV là mối quan tâm chủ yếu của trọng tài.
13.2. Nhiệm vụ: Trọng tài điều hành võ đài phải mặc quần trắng, áo trắng, giày màu sáng không có gót. Có thể mang nơ đen trên cổ áo. Ở các nước nhiệt đới, nơi có thể được miễn đeo khi Chủ tịch Ban giám khảo hoặc Chủ tịch ban Trọng tài - Giám định đồng ý. Trọng tài có thể sử dụng găng tay mỏng khi làm việc.
Trọng tài phải:
13.2.1. Theo dõi xem Luật lệ và tinh thần thi đấu FAIR PLAY có được thực hiện nghiêm túc không.
13.2.2. Duy trì việc kiểm soát trận đấu trong tất cả các giai đoạn của trận đấu.
13.2.3. Ngăn cản một VĐV yếu hơn tránh các đòn thái qua không cần thiết.
13.2.4. Kiểm tra găng và trang phục VĐV.
13.2.5. Sử dụng 03 khẩu lệnh sau:
13.2.5.1. "STOP" khi ra lệnh cho VĐV ngừng đấu .
13.2.5.2. "BOX" khi ra lệnh thi đấu.
13.2.5.3. "BREAK" khi 2 VĐV ôm chặt nhau, ra lệnh 2 VĐV dang ra và bước lùi trước khi tiếp tục thi đấu.
13.2.6. Bằng dấu hiệu và cử chỉ thích hợp, dễ hiểu để chỉ cho VĐV thấy họ vi phạm Luật lệ.
13.2.7. Sau trận đấu, thu và kiểm tra phiếu điểm của 5 giám định nộp cho Chủ tịch Ban Giám khảo hoặc cho phát thanh viên nếu không có Chủ tịch Ban Giám khảo.
13.2.8. Trọng tài không chỉ định VĐV thắng cuộc bằng cách giơ cao tay VĐV hay bằng một cách nào khác trước khi phát thanh viên công bố kết quả chính thức, lúc đó trọng tài giơ cao tay của VĐV.
13.2.9. Khi trọng tài truất quyền thi đấu của một VĐV hoặc dừng trận đấu phải thông báo cho Chủ tịch Ủy ban Giám khảo tên VĐV bị truất quyền hoặc lý do dừng trận đấu để Chủ tịch Ban Giám khảo chỉ thị cho phát thanh viên công bố quyết định một cách chnhs xác cho công chúng.
13.3. Quyền lực của trọng tài: Trọng tài có quyền:
13.3.1. Kết thúc trận đấu bất cứ lúc nào nếu trọng tài cân nhắc thấy trận đấu chỉ thiên về một phía VĐV, không tương xứng.
13.3.2. Chấm dứt trận đấu bất cứ lúc nào nếu một VĐV bị một vết thương mà trọng tài thấy không thể tiếp tục thi đấu được.
13.3.3. Kết thúc trận đấu bất cứ lúc nào nếu cân nhắc thấy hia VĐV thi đấu một cách không trung thực, trọng tài có thể truất quyền một hoặc cả hai VĐV.
13.3.4. Nhắc nhở một VĐV hoặc dừng trận đấu để cảnh cáo một VĐV có lỗi hoặc vì một lý do nào khác nhằm bảo đảm tôn trọng Luật lệ và Fair Play.
13.3.5. Truất quyền một VĐV khi không chấp hành ngay lệnh của trọng tài hoặc có thái độ hung hăng, khiêu khích trọng tài vào bất kỳ thời điểm nào.
13.3.6. Truất quyền săn sóc viên khi phạm luật và vì thế có thể truất quyền vì lỗi của săn sóc viên nếu người đó không chấp hành lệnh của trọng tài.
13.3.7. Truất quyền VĐV mà không cần phải cảnh cáo trước.
13.3.8. Ngừng đếm khi một VĐV bị knock down mà VĐV kia không lùi về góc trung lập hoặc trì hoãn thực hiện việc đó.
13.3.9. Vận dụng Luật lệ thi đấu để có một quyết định, một biện pháp cần thiết trong bất kỳ trường hợp nào của trận đấu mà luật không quy định.
13.4. Cảnh cáo: nếu VĐV vi phạm luật chưa đến mức bị truất quyền, trọng tài ngừng trận đấu để cảnh cáo VĐV đó. Việc cảnh cáo phải rõ ràng sao cho VĐV có thể hiểu được lý do mắc lỗi. Trọng tài ra hiệu bằng tay (hay một ký hiệu nào đó) thật rõ cho Giám định biết Trọng tài đã cảnh cáo VĐV nào vì lỗi gì, sau đó trọng tài mới ra lệnh "BOX". Nếu một VĐV bị ba lần cảnh cáo trong một trận đấu, VĐV đó đương nhiên bị loại.
13.5. Nhắc nhở: Trọng tài có quyền nhắc nhở một VĐV, đây là một khuyến cáo nhằm ngăn cản việc vi phạm Luật lệ nhưng chưa đến mức cảnh cáo.
Trọng tài có thể không cho ngừng trận đấu mà tranh thủ thời cơ thuận lợi trong hiệp đấu để nhắc nhở.
13.6. Nhận xét về y tế: Trước giải đấu, trọng tài phải qua kiểm tra y tế để xác nhận có đầy đủ thể lực để hoàn thành nhiệm vụ giao phó. Mỗi con mắt của trọng tài phải đạt ít nhất 06 đi-ốp. Trong khi điều hành trận đấu, trọng tài không được mang kính nhưng nếu mang kính áp tròng (contact lens) thì được phép. Trọng tài bắt buộc phải tham dự buổi họp trước khi giải đấu được chủ trì bởi Giám định Y tế.
ĐIỀU 14: GIÁM ĐỊNH
14.1. Trang phục: Quần áo màu trắng và có thể mặc áo khoác nếu được phép.
14.2. Nhiệm vụ:
14.2.1. Giám định xét đoán độc lập các năng lực của VĐV và quyết định người thắng trên cơ sở luật định.
14.2.2. Trong trận đấu, Giám định không được nói chuyện với VĐV, các giám định khác hoặc bất kỳ ai ngoại trừ trọng tài nhưng phải trong trường hợp cấp thiết sau mỗi hiệp đấu sẽ lưu ý trọng tài những điểm mà trọng tài không thấy như thái độ của săn sóc viên, dây đai bị chùng v.v...
14.2.3. Số điểm chấm cho VĐV do Giám định ghi trên phiếu điểm ngay sau mỗi hiệp đấu trừ khi có máy chấm điểm điện tử.
14.2.4. Trừ khi có sử dụng máy chấm điểm điện tử còn sau mỗi trận đấu, Giám định cộng số điểm trên phiếu điểm, chỉ định VĐV thắng cuộc, ký vào phiếu điểm. Các điều này được công bố cho công chúng được biết.
14.2.5. Giám định không được rời khỏi vị trí trước khi quyết định thắng thua được công bố.
ĐIỀU 15: TRỌNG TÀI BẤM GIỜ
15.1. Nhiệm vụ:
15.1.1. Nhiệm vụ chủ yếu của trọng tài bấm giờ là điều chỉnh số lượng thời gain của mỗi hiệp đấu, lúc ngừng trận đấu và thời gian gnhỉ giữa các hiệp đấu (là tròn 1 phút).
15.1.2. Năm giây trước khi bắt đầu một hiệp đấu, trọng tài bấm giờ ra khẩu lệnh "Dọn sạch đài đấu" hoặc "Săn sóc viên ra ngoài".
15.1.3. Công bố bắt đầu và chấm dứt mỗi hiệp ngay trước khi bắt đầu hiệp đó.
15.1.4. Thông báo số thứ tự của mỗi hiệp ngay trước khi bắt đầu hiệp đó.
15.1.5. Nếu trọng tài cho ngừng trận đấu thì phải trừ thời giam ngừng đó.
15.1.6. Xác định thời gian bằng đồng hồ đeo tay hoặc để bàn.
15.1.7. Khi có một VĐV bị nằm sàn (knock down), báo hiều cho trọng tài từng giây trôi qua khi trọng tài đang đếm.
15.1.8. Nếu một VĐV đang nằm sàn và trọng tài đếm, đúng lúc đó thời gian hiệp đấu đã hết thì trọng tài bấm giờ không được gõ cồng chấm dứt hiệp đấu mà phải chờ cho trọng tài ra lệnh "BOX" mới được gõ cồng chấm dứt hiệp đấu. Tuy nhiên điều này không được áp dụng ở hiệp cuối cùng của các trận chung kết trong Đại hội Olympic, vô địch thế giới, tranh giải thế giới, giải luân lưu của AIBA, vô địch châu lục và các cuộc thi đấu quốc tế khác.
15.2. Vị trí: Chỗ ngồi của trọng tài thời gian ở gần võ đài.
ĐIỀU 16: CÁC QUYẾT ĐỊNH
16.1. Các loại quyết định:
16.1.1. Thắng điểm: Sau mỗi trận đấu, VĐV nào được đa số giám định chấm thắng sẽ được tuyên bố là người thắng cuộc. Nếu cả hai VĐV bị thương hoặc đều đo ván (K.O) cùng một lúc và không tiếp túc đấu được nữa, giám định sẽ cộng số điểm của từng VĐV tới lúc ngừng đấu và VĐV nào được nhiều điểm hơn vào lúc đó sẽ là người thắng cuộc.
16.1.2. Thắng vì bỏ cuộc: Nếu một VĐV tự nguyện bỏ cuộc do chấn thương hay vì một lý do nào khác hoặc không tiếp tcụ thi đấu sau giờ nghỉ giữa hai hiệp, thì đối phương là người thắng cuộc.
16.1.3. Thắng do trọng tài cho ngừng trận đấu:
16.1.3.1. Không cân sức: RSC là thuật ngữ dùng để chỉ ngừng trận đấu khi một VĐV không cân sức hoặc không có khả năng đấu tiếp. Nếu một VĐV theo nhận định của trọng tài là không cân sức hoặc bị nhiều đòn thái quá, trận đấu sẽ được ngừng và đối phương là người thắng cuộc.
16.1.3.2. Chấn thương:
a. Theo trọng tài, một VĐV không thể tiếp tục thi đấu được do chấn thương hoặc thể lực yếu kém, trận đấu sẽ được ngừng và đối phương là người thắng cuộc. Quyền ra quyết định này là của trọng tài sau khi tham khảo ý kiến của bác sĩ và khi đã hỏi ý kiến của bác sĩ rồi thì trọng tài phải tuân thủ lời khuyên đó. Trọng tài cũng phải xem xét vết thương của VĐv kia trước khi có quyết định.
viên chức Y tế của trận đấu có quyền đề nghị ngừng trận đấu nếu họ thấy cần thiết vì lý do Y tế. Trước đó, họ phải thông báo cho Giám sát trưởng để ông này thông báo cho trọng tài.
Thời gian ngừng trận đấu tối đa là một phút để viên chức y tế khám xem VĐV còn đủ điều kiện thi đấu hay không (viên chức y tế bao gồm Chủ tịch Giám định Y tế hoặc bác sĩ chịu trách nhiệm y tế cho một trận đấu).
b. Nếu có chấn thương và trận đấu đã diễn ra qua hiệp một, số điểm cho tới khi bị chấn thương của cac sVĐv sẽ được cộng lại và ai có nhiều điểm hơn là người thắng.
Trong cuộc thi đấu vô địch, VĐV không bị chấn thương sẽ là người thắng. Trong giải thi đấu giữa hai nước, một chấn thương như vậy tại hiệp một có thể dẫn tới quyết định hủy bỏ trận đấu.
c. Khi trọng tài mời bác sĩ lên võ đài đẻ khám cho VĐV thì chỉ hai người này được ở trên võ đài, các săn sóc viên không được lại gần võ đài.
d. Nếu giám sát trưởng sau khi hội ý với các thành viên trong Ban Giám sát tin tưởng rằng máy chấm điểm điện tử với 15 điểm cách biệt giữa hai VĐV, trận đấu có thể chấm dứt để tránh cho một VĐV bị những đòn không cần thiết. Ông ta có quyền dừng trận đấu bằng cách gõ cồng hay các phương tiện khác, hỏi ý kiến trọng tài và theo kết quả đó tuyên bố "Góc X là người chiến thắng bởi RSC".
16.1.4. Thắng do truất quyền: Nếu một VĐV bị truất quyền, VĐV kia là người thắng cuộc. Nếu cả hai VĐV bị truất quyền, quýet định sẽ được công bố. VĐV bị truất quyền không được bất kỳ giải thưởng, huy chương, cúp, xếp hạng của toàn bộ giải đấu. Trong trường hợp ngoại lệ Hội đồng chấp hành (hoặc không có Hội đồng chấp hành thì Giám Sát trưởng hoặc Ban Giám khảo) có thể xin xét ngoại lọê, nhưng các quyết định phải được thông qua bởi Hội đồng chấp hành.
16.1.5. Thắng cuộc do đo ván (K.O): Nếu một VĐV bị nằm do một cú đấm và không đứng dậy để thi đấu tiếp. Sau 10 giây thì đối phương được tuyên bố thắng cuộc do "đo ván".
16.1.6. Thắng bằng RSC-H: Một VĐV bị những cú đấm nặng vào đầu không tiếo tục thi đấu được thì đối phương được tuyên bố thắng cuộc.
16.1.7. Không có trận đấu: Trọng tài kết thúc trận đấu không phỉa vì trách nhiệm của các VĐV và trọng tài mà vì cá hoàn cảnh khách quan như võ đài bị hư hỏng, hệ thống điện gặp sự cố, thời tiết đặc biệt v.v...Trong những trường hợp đó, trận đấu được tuyên bố là "không có trận đấu" và trong giải vô địch, Ban Giám khảo sẽ quyết định không hành động tiếp theo.
16.1.8. Thắng cuộc do không có đối thủ: Khi một VĐV đã có mắt ở võ đài với trang phục đầy đủ để thi đấu mà đối thủ kia không xuất hiện dù loa phóng thanh đã gọi tên rồi chuông reo và ba phút trôi qua, trọng tài chỉ định VĐV có mặt tại võ đài là người thắng cuộc. Trước tiên, trọng tài đề nghị các giám định ghi đầy đủ vào phiếu điểm, thu các phiếu điểm đó, sau đó dẫn VĐV ra giữa đài và sau khi quyết định được công bố, giơ tay VĐV là người thắng cuộc.
16.1.9. Hòa: Trận đấu giao hữu giữa hai Câu lạc bộ của hai nước có thể chấp nhận hòa khi đa số các giám định cho điểm bằng nhau hoặc có chấn thương ngay trong hiệp đầu của trận đấu.
16.1.10. Những sự kiện xảy ra trong đài đấu nằm ngoài tầm kiểm soát của trọng tài.
16.1.10.1. Nếu có sự cố xảy ra không cho phép trận đấu được tiếp tục trong vòng một phút sau khi chuông reo để bắt đầu hiệp 1 hay hiệp 2 (ví dụ như mất điện), trận đấu sẽ được dừng lại và VĐV sẽ thi đấu tiếp hai hiệp cuối vào thời điểm thích hợp của buổi thi đấu.
16.1.10.2. Nếu sự cố xảy ra ở hiệp thứ tư của trận đấu, trận đấu sẽ được kết thúc và các giám định được yêu cầu đưa ra quyết định xem VĐV nào là người chiến thắng.
16.1.10.3. Nếu sự cố xảy ra trong ba trận đấu cuối cùng của buổi thi đấu, VĐV sẽ được thi đấu vào trận đầu tiên của chương trình thi đấu kế tiếp, VĐV sẽ được cân và kiểm tra y tế một lần nữa trước trận đấu.
ĐIỀU 17: CHẤM ĐIỂM
Các chỉ dẫn sau đây cần được chú ý:
17.1. Liên quan đến đòn đánh:
17.1.1. Đòn đánh được tính điểm:
Trong mỗi hiệp, Giám định sẽ cho điểm căn cứ vào các đòn đấm của VĐV. Để cho điểm mỗi đòn đánh, đòn đó không bị ngăn chặn hay bảo vệ và phải trúng đích với diện tích tiếp xúc hợp lệ của găng, đòn đó phải trúng đích vào phần trước của đầu hay thân thể kể từ thắt lưng trở lên. Các đòn tạt ngang (Swings) đánh đúng như trên cũng được tính điểm. Giá trị của các đòn đánh giáp thân sẽ được đánh giá vào cuối của lần giáp thân giữa VĐV và tùy thuộc vào số đòn đánh chiếm đa số của VĐV đó.
17.1.2. Đòn đánh không ghi điểm.
17.1.2.1. Cú đánh vi phạm luật hoặc,
17.1.2.2. Đánh bằng cạnh, mắt sau của găng, đánh mở găng hoặc bất kỳ phần nào khác ngoài diện tích găng che cảu các khớp của năm ngón tay (diện tích tiếp xúc hợp lệ).
17.1.2.3. Đòn đánh bằng cánh tay.
17.1.2.4. Chạm vào cơ thể mà không có lực của vai hay cơ thể.
17.2. Về việc vi phạm luật:
17.2.1. Cảnh cáo của trọng tài: Nếu trọng tài cảnh cáo một VĐV thì giám định có thể cho điểm VĐV kia. Khi giám định đã quyết định cho VĐV một điểm, vì đối thủ đã vi phạm luật và trọng tài đã cảnh cáo, thì giám định sẽ ghi chữ "U" vào cột ghi điểm. Nếu giám định không nhất trí với trọng tài thì ghi chữ "X" và lý do vắn tắt mà trọng tài đã cảnh cáo.
17.2.2. Các lỗi khác: Trong mỗi một hiệp, Giám định sẽ xác định mức độ của lỗi vi phạm mà trọng tài không thấy và không cảnh cáo, ông ta sẽ ghi chữ "J" vào cột ghi điểm và lý do cảnh cáo.
17.3. Liên quan đến cách cho điểm:
17.3.1. Sau mỗi hiệp: Mỗi hiệp được cho điểm là 20 điểm, không cho điểm với phần số lẻ. Sau mỗi hiệp, VĐV thắng được cho 20 điểm và VĐV kia được điểm ít hơn một cách tương xứng, trường hợp ngang bằng mỗi VĐV được 20 điểm.
17.3.2. Xác định các điểm: Chấm điểm theo các nguyên tắc sau:
Ba đòn đánh chính xác hợp lệ được 1 điểm, bị trọng tài giám định cảnh cáo đối phương được 1 điểm. Nếu số lượng đòn khác 3, 6, 9, 12 v.v... thì bảng sau được áp dụng:
Số đòn |
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|
7
|
8
|
9
|
10
|
11 |
12 |
13 |
14 v.v |
Điểm |
0 |
1 |
1 |
1 |
2 |
2 |
2 |
3 |
3 |
3 |
4 |
4 |
4 |
5 v.v |
17.3.3. Kết thúc trận đấu: Sau khi ghi điểm của từng hiệp như trên, giám định thấy các VĐV có số điểm bằng nhau, giám định sẽ quyết định VĐV nào thắng tùy thuộc vào:
17.3.3.1. Số lần tấn công nhiều hơn, kỹ thuật tốt hơn. Nếu vẫn bằng nhau thì:
17.3.3.2. Phòng thủ tốt hơn (khóa, tránh né, đỡ đòn v.v...) và đã vô hiệu hóa hoặc làm kém hiệu quả các đòn đánh của đối phương.
17.3.3.3. Tất cả các cuộc thi đấu đều phải chỉ định được VĐV thắng cuộc còn trong các cuộc đấu hữu nghị giữa 02 nước có thể có trận hòa.
17.3.4. Nằm sàn: Không một điểm nào được ghi cho VĐV bị nằm sàn.
17.4. Sử dụng máy tính điện tử:
17.4.1. Nếu sử dụng máy tính điện tử, sẽ áp dụng các quy tắc sau:
17.4.1.1. Quyết định cho điểm được thiết lập, giám định ấn các nút được hướng dẫn để cho phép VĐV có những đòn đánh chính xác, hợp lệ.
17.4.1.2. Về cơ bản, những đòn đánh chính xác và các thông tin khác được ghi lại và tính toán một cách tự động bởi máy chấm điểm. VĐV sẽ được điểm nếu máy nhận được ít nhất 3 trong 5 giám định ấn nút cho điểm VĐV đó.
17.4.1.3. Máy tính điểm điện tử sẽ trừ 2 điểm cho VĐV bị cảnh cáo (tương đương với 2 điểm của 2 đòn đấm chính xác cho hợp lệ).
17.4.1.4. VĐV thấy điểm được xác định trên cơ sở tổng các đòn chính xác đếm được trong các hiệp đấu, VĐV có nhiều đòn hơn sẽ là người thắng cuộc.
17.4.1.5. VĐV sẽ được điểm nếu đòn đánh hợp lệ ít nhất 3 trong 5 giám định ấn nút ch điểm. Có những đòn đánh không đủ 3 Giám định ấn nút cho điểm mà ví dụ như chỉ có 2 giám định ấn nút cho điểm sẽ cũng được máy chấm điểm lưu giữ lại. Đây là cơ sở để xác định VĐV nào thắng nếu cuối trận đấu số điểm của 2 VĐV được máy chấm là bằng nhau, dựa vào thông tin trên được máy chấm điểm lưu giữ lại, người ta tính được VĐV nào có nhiều đòn đánh hợp lệ hơn. Nếu 2 VĐV vẫn bằng nhau, 5 giám định sẽ quyết định VĐV thắng cuộc dựa vào Điều 17.3.3 bằng cách nhấn nút bấm thích hợp.
17.4.2. Sử dụng máy tính điểm điện tử không cần dùng phiếu điểm, toàn bộ thông số cần thiết được máy tính ghi nhận và sau trận đâu sẽ tự động in ra.
17.4.3. Trường hợp máy tính điểm điện tử có trục trặc, cần tiến hành:
17.4.3.1. Giám sát trưởng ra lệnh ngừng trận đấu trong 1 phút, nếu trong thời gian đó máy chưa được sửa song thì trận đấu phải được tiếp tục. Vận dụng Điều 12.2.1, quyết định của 5 giám khảo sẽ được xem là chính thức.
17.4.3.2. Nếu máy tính điện tử không thể sửa được, Ban giám sát có quyền áp dụng Điều 17.1; 17.2; 17.3 cho các trận đấu tiếp theo.
17.4.4. Trong các giải vô địch của AIBA, giải Olympic, máy chấm điểm điện tử sẽ được một viên chức do AIBA chỉ định điều khiển.
|